Đà gia tăng sự hợp tác của Nga với các nước Đông Nam Á, đặc biệt là trong lĩnh vực năng lượng và quốc phòng, cũng như triển vọng phát triển lưu thông hàng hải theo tuyến đường biển phương Bắc - có thể là phương án thay thế cho tuyến qua eo biển Malacca, là những yếu tố đang làm thay đổi nhận thức về vai trò tiềm năng của Nga trong khu vực.
Ảnh hưởng ngày càng tăng của Nga hiện hữu trong bối cảnh các nước Đông Nam Á có nguyện vọng kiềm chế sự bành trướng của một Trung Quốc lớn mạnh nhanh chóng. Đó là quan điểm do học giả nổi tiếng người Mỹ Elizabeth Vishnik chuyên nghiên cứu các vấn đề châu Á-Thái Bình Dương nêu ra gần đây. Còn một khía cạnh đáng chú ý nữa: Trong tương quan này, liệu có thể xuất hiện xích mích trong quan hệ giữa Bắc Kinh và Matxcơva? Ông Sergei Luzyanin Phó Giám đốc Viện Viễn Đông (Viện Hàn lâm khoa học Nga) phân tích tình hình trong khu vực dưới góc độ nhãn quan lợi ích của Nga.
Nga cho rằng khuôn khổ của quan hệ đối tác song phương Nga-Trung sẽ không thể kìm hãm những sáng kiến của Matxcơva về mở rộng vai trò của Liên bang Nga trong khu vực, đặc biệt là với các lĩnh vực năng lượng và an ninh. Quan hệ đó cũng không được kiềm chế xu thế đa dạng hóa các liên hệ song phương mà Nga vốn xây đắp thành công với người bạn cũ là Việt Nam, cũng như phát triển các hình thức hợp tác song phương mới mẻ với những thành viên khác của ASEAN.
Các chuyên viên Trung Quốc đưa ra giải thích theo lối của họ. Trong khi về nguyên tắc không phản đối sự phát triển các quan hệ song phương và đa phương của Nga với các nước trong khu vực, Bắc Kinh vẫn tỏ thái độ tiêu cực trước thực tế Nga tăng cường hợp tác năng lượng với Việt Nam và những quốc gia khác mà Trung Quốc đang có "tranh chấp biển đảo", kể cả tranh chấp về thềm lục địa chứa hydrocarbon.
Dễ hiểu là các tập đoàn năng lượng của Nga đang cố gắng tuân thủ "luật chơi" bất thành văn nào đó, cố gắng không lọt vào vùng lãnh thổ tranh chấp. Nhưng như đã rõ, ranh giới của thềm lục địa tranh chấp là khá tương đối, được cắt nghĩa mỗi lần đều theo cách mới ở Bắc Kinh, Hà Nội, Manila và những thủ đô khác của các quốc gia dự phần tranh cãi. Và ở đây có thể xảy ra "hiểu lầm". Vấn đề khác nữa là trong những trường hợp này, đòi hỏi sự phân định nghiêm túc, tách chính trị khỏi thương mại, không tạo ra cơ sở để ngờ vực lẫn nhau và không phá hoại những lợi ích chiến lược chung.
Chỉ mới cách đây 5 - 10 năm về trước, đối với Liên bang Nga và Trung Quốc tất cả đều được “qui định” trên bình diện những đánh giá chính trị. Liên minh quân sự và chính trị (song phương) của Hoa Kỳ với các nước trong khu vực gây mất ổn định tình hình và đáng bị phê phán, còn sự tham gia của Nga và Trung Quốc vào các đề án như kiểu ARF (Diễn đàn khu vực về an ninh của ASEAN) và những kế hoạch khác – thì được hoan nghênh, đánh giá tích cực v.v... Giờ đây đã xuất hiện sắc thái mới cả trong lĩnh vực an ninh khu vực cũng như trong các đề án giao thông vận tải.
Thời điểm hiện tại, có vẻ Trung Quốc muốn nhìn thấy lập trường rõ ràng hơn của Liên bang Nga về "xung đột biển đảo" và muốn có sự ủng hộ của Nga về những nội dung khác, kể cả vấn đề "quốc tế hóa eo biển". Chuyện ở đây trước hết là về eo biển Malacca. Bắc Kinh đang tìm kiếm nguồn dự trữ và khả năng mới để sử dụng Nga như là động lực bổ sung nhằm hỗ trợ cho chính sách của Trung Quốc ở Đông Nam Á.
Có thể thấy là người ta không chuyển tải "niềm hy vọng Trung Hoa" cho Nga một cách rõ ràng hoặc chính thức. Về cơ bản ý tứ đó biểu đạt theo lối “lộ trình chuyên viên”. Nhưng ngay bây giờ đã có thể nhận thấy sự bực dọc của một số nhân vật chính giới Trung Quốc trước đà xúc tiến tích cực hợp tác năng lượng và gia tăng hợp tác quân sự Nga-Việt. Giữa các chuyên viên Nga và Trung Quốc cũng không có kiến giải chung nhất về qui chế tương lai của tuyến đường biển phương Bắc (NSR).
Trong những điều kiện này, như ghi nhận của các chuyên gia phương Tây, kể cả học giả Elizabeth Vishnik, tuyến đường biển phương Bắc có thể biến thành một kiểu đối trọng thay thế cho eo biển Malacca. Quả thực, “xung đột biển đảo” của Trung Quốc với hàng loạt nước ASEAN rõ ràng sẽ bảo lưu và tồn tại trong hình thức như bây giờ đủ lâu dài (thậm chí còn có thể trở nên nghiêm trọng hơn). Đồng thời đang diễn ra hiện tượng khí hậu ấm lên và băng tan chảy. Lưu thông tàu thuyền theo đường biển phía Bắc sẽ thuận tiện hơn. Dễ hiểu là các thành tố chiến lược (tạo lập hành lang giao thông mới) và thương mại (độ lưu thông) của dự án qua mỗi năm sẽ càng tăng thêm.
Như vậy, Trung Quốc cần hiểu rằng xu hướng này không phải là mưu toan ác ý của Matxcơva mà là tiến trình khách quan của sự thay đổi bối cảnh khu vực, cũng như có phần từ thay đổi điều kiện khí hậu, mà bất kỳ chính trị gia nào dù hùng mạnh đến đâu cũng không thể gây tác động ảnh hưởng.
Những thành tố mới không thể phá vỡ hình thức đối tác Nga-Trung đã được thiết lập, nhưng, hiển nhiên, sẽ cần đến những điều chỉnh (về chuyên viên và chính trị) từ cả hai bên. Cụ thể, về mức độ và điều kiện của khả năng "quốc tế hóa" tuyến đường biển phương Bắc, triển khai rộng hoạt động dầu khí của Nga trong vùng biển phần phía nam Đông Nam Á, mở rộng phạm vi hợp tác song phương Nga-Việt Nam, Nga-Philippine và vai trò của Nga trong nền an ninh khu vực nói chung.
Nga cho rằng khuôn khổ của quan hệ đối tác song phương Nga-Trung sẽ không thể kìm hãm những sáng kiến của Matxcơva về mở rộng vai trò của Liên bang Nga trong khu vực, đặc biệt là với các lĩnh vực năng lượng và an ninh. Quan hệ đó cũng không được kiềm chế xu thế đa dạng hóa các liên hệ song phương mà Nga vốn xây đắp thành công với người bạn cũ là Việt Nam, cũng như phát triển các hình thức hợp tác song phương mới mẻ với những thành viên khác của ASEAN.
Các chuyên viên Trung Quốc đưa ra giải thích theo lối của họ. Trong khi về nguyên tắc không phản đối sự phát triển các quan hệ song phương và đa phương của Nga với các nước trong khu vực, Bắc Kinh vẫn tỏ thái độ tiêu cực trước thực tế Nga tăng cường hợp tác năng lượng với Việt Nam và những quốc gia khác mà Trung Quốc đang có "tranh chấp biển đảo", kể cả tranh chấp về thềm lục địa chứa hydrocarbon.
Dễ hiểu là các tập đoàn năng lượng của Nga đang cố gắng tuân thủ "luật chơi" bất thành văn nào đó, cố gắng không lọt vào vùng lãnh thổ tranh chấp. Nhưng như đã rõ, ranh giới của thềm lục địa tranh chấp là khá tương đối, được cắt nghĩa mỗi lần đều theo cách mới ở Bắc Kinh, Hà Nội, Manila và những thủ đô khác của các quốc gia dự phần tranh cãi. Và ở đây có thể xảy ra "hiểu lầm". Vấn đề khác nữa là trong những trường hợp này, đòi hỏi sự phân định nghiêm túc, tách chính trị khỏi thương mại, không tạo ra cơ sở để ngờ vực lẫn nhau và không phá hoại những lợi ích chiến lược chung.
Chỉ mới cách đây 5 - 10 năm về trước, đối với Liên bang Nga và Trung Quốc tất cả đều được “qui định” trên bình diện những đánh giá chính trị. Liên minh quân sự và chính trị (song phương) của Hoa Kỳ với các nước trong khu vực gây mất ổn định tình hình và đáng bị phê phán, còn sự tham gia của Nga và Trung Quốc vào các đề án như kiểu ARF (Diễn đàn khu vực về an ninh của ASEAN) và những kế hoạch khác – thì được hoan nghênh, đánh giá tích cực v.v... Giờ đây đã xuất hiện sắc thái mới cả trong lĩnh vực an ninh khu vực cũng như trong các đề án giao thông vận tải.
Thời điểm hiện tại, có vẻ Trung Quốc muốn nhìn thấy lập trường rõ ràng hơn của Liên bang Nga về "xung đột biển đảo" và muốn có sự ủng hộ của Nga về những nội dung khác, kể cả vấn đề "quốc tế hóa eo biển". Chuyện ở đây trước hết là về eo biển Malacca. Bắc Kinh đang tìm kiếm nguồn dự trữ và khả năng mới để sử dụng Nga như là động lực bổ sung nhằm hỗ trợ cho chính sách của Trung Quốc ở Đông Nam Á.
Có thể thấy là người ta không chuyển tải "niềm hy vọng Trung Hoa" cho Nga một cách rõ ràng hoặc chính thức. Về cơ bản ý tứ đó biểu đạt theo lối “lộ trình chuyên viên”. Nhưng ngay bây giờ đã có thể nhận thấy sự bực dọc của một số nhân vật chính giới Trung Quốc trước đà xúc tiến tích cực hợp tác năng lượng và gia tăng hợp tác quân sự Nga-Việt. Giữa các chuyên viên Nga và Trung Quốc cũng không có kiến giải chung nhất về qui chế tương lai của tuyến đường biển phương Bắc (NSR).
Trong những điều kiện này, như ghi nhận của các chuyên gia phương Tây, kể cả học giả Elizabeth Vishnik, tuyến đường biển phương Bắc có thể biến thành một kiểu đối trọng thay thế cho eo biển Malacca. Quả thực, “xung đột biển đảo” của Trung Quốc với hàng loạt nước ASEAN rõ ràng sẽ bảo lưu và tồn tại trong hình thức như bây giờ đủ lâu dài (thậm chí còn có thể trở nên nghiêm trọng hơn). Đồng thời đang diễn ra hiện tượng khí hậu ấm lên và băng tan chảy. Lưu thông tàu thuyền theo đường biển phía Bắc sẽ thuận tiện hơn. Dễ hiểu là các thành tố chiến lược (tạo lập hành lang giao thông mới) và thương mại (độ lưu thông) của dự án qua mỗi năm sẽ càng tăng thêm.
Như vậy, Trung Quốc cần hiểu rằng xu hướng này không phải là mưu toan ác ý của Matxcơva mà là tiến trình khách quan của sự thay đổi bối cảnh khu vực, cũng như có phần từ thay đổi điều kiện khí hậu, mà bất kỳ chính trị gia nào dù hùng mạnh đến đâu cũng không thể gây tác động ảnh hưởng.
Những thành tố mới không thể phá vỡ hình thức đối tác Nga-Trung đã được thiết lập, nhưng, hiển nhiên, sẽ cần đến những điều chỉnh (về chuyên viên và chính trị) từ cả hai bên. Cụ thể, về mức độ và điều kiện của khả năng "quốc tế hóa" tuyến đường biển phương Bắc, triển khai rộng hoạt động dầu khí của Nga trong vùng biển phần phía nam Đông Nam Á, mở rộng phạm vi hợp tác song phương Nga-Việt Nam, Nga-Philippine và vai trò của Nga trong nền an ninh khu vực nói chung.
Theo Đài Tiếng Nói Nước Nga
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét